Vướng mắc về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Vướng mắc về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Vướng mắc về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, Luật 24H cam kết tư vấn 24/7, với thông tin chuẩn xác nhất, giá cả phải chăng, bảo vệ quyền lợi khách hàng tốt nhất. Các Luật sư của Luật 24H sẽ giúp bạn giải quyết tất cả những vấn đề trên.
Căn cứ pháp lý
Bộ luật Dân sự 2015
Giải quyết vấn đề
Hiện nay, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự (hiểu theo nghĩa rộng) được quy định tại nhiều bộ luật, chẳng hạn: Bộ luật Dân sự (BLDS), Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS), Bộ luật Hàng hải, Bộ luật Lao động, Luật Thương mại,…
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 150 BLDS, thì thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền khởi kiện của chủ thể có quyền này (sau đây gọi tắt là người có quyền), BLDS còn có quy định về việc không tính vào thời hiệu khởi kiện thời gian người có quyền gặp trở ngại khách quan hoặc thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng (Điều 156 BLDS).
Như vậy, theo các quy định nêu trên, nếu không gặp trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng mà người có quyền không thực hiện quyền khởi kiện trong thời gian luật cho phép, thì người đó mất quyền khởi kiện. Mất quyền khởi kiện dẫn đến việc người bị mất quyền này không còn được nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp giữa họ với bên tranh chấp còn lại. Vì vậy, nếu người bị mất quyền khởi kiện vẫn nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, thì sẽ phát sinh một số vấn đề cần xem xét, đánh giá sau đây:
Thứ nhất, người bị mất quyền khởi kiện nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự với tư cách nào?
Thứ hai, căn cứ, cơ sở nào để Tòa án thụ lý đơn khởi kiện nếu xác định thấy người nộp đơn đó đã mất quyền khởi kiện?
Hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau về các vấn đề nêu trên.
Ý kiến thứ nhất viện dẫn quy định tại khoản 2 Điều 149 BLDS để cho rằng người bị mất quyền khởi kiện vẫn được quyền nộp đơn khởi kiện, Tòa án vẫn phải xem xét, thụ lý đơn khởi kiện với lý do Tòa án không được tự động áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Theo đó, Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự khi có ít nhất đề nghị của bị đơn và bị đơn phải đưa ra đề nghị này trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án. Nếu bị đơn không đề nghị áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thì Tòa án vẫn thụ lý, giải quyết vụ án dân sự. Đây là quy định mới của BLDS để bảo đảm quyền tự định đoạt giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự.
Ý kiến thứ hai thì cho rằng quy định tại khoản 2 Điều 149 BLDS mâu thuẫn và vô hiệu hóa quy định tại khoản 3 Điều 150 của Bộ luật này. Bởi lẽ:
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 3 Điều 150 BLDS, thì việc nộp đơn khởi kiện là để thực hiện quyền khởi kiện trong một thời gian cụ thể mà luật cho phép. Nếu người này không thực hiện quyền khởi kiện trong thời hạn đó, thì họ mất quyền này. Do đó, khi thời hiệu khởi kiện vụ án dẫn sự vẫn còn, mà người có quyền khởi kiện tiến hành nộp đơn khởi kiện, thì người này được gọi là “người khởi kiện” hoặc “nguyên đơn” nếu Tòa án thụ lý đơn khởi kiện. Vì vậy, trong trường hợp người có quyền khởi kiện không nộp đơn khởi kiện trong thời hạn luật cho phép, thì người này mất quyền khởi kiện và mất luôn tư cách “người khởi kiện”. Từ đây, khi đã bị mất quyền khởi kiện, thì người mất quyền này không có bất kỳ tư cách nào để nộp đơn khởi kiện. Đồng thời, Tòa án cũng không có căn cứ, cơ sở nào để thụ lý đơn khởi kiện khi xác định thấy người nộp đơn khởi kiện đã mất quyền khởi kiện. Như vậy, có thể khẳng định rằng nếu cho phép người bị mất quyền khởi kiện vẫn được nộp đơn khởi kiện và Tòa án vẫn thụ lý đơn khởi kiện đó để giải quyết, thì quy định về việc mất quyền khởi kiện tại khoản 3 Điều 150 BLDS là không mang tính khả thi.
Thứ hai, khi người có quyền khởi kiện nộp đơn khởi kiện người khác trong thời hạn luật định, thì người khác đó được gọi là “người bị kiện” hoặc “bị đơn” nếu Tòa án thụ lý đơn khởi kiện. Do đó, nếu thời hiệu khởi kiện đã hết, thì “người bị kiện” cũng mất tư cách này. Nói cách khác, không có căn cứ để tiếp tục xác định một người là “người bị kiện” khi thời hiệu khởi kiện đã hết. Vì vậy, việc BLDS (khoản 2 Điều 149) trao quyền cho người không còn được coi là “người bị kiện” theo luật định được đề nghị áp dụng hoặc từ chối áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện là không có cơ sở pháp lý.
Dịch vụ hỗ trợ của Luật 24H
Đến với chúng tôi, chúng tôi sẽ đồng hành và hỗ trợ bạn các dịch vụ liên quan đến Vướng mắc về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, bao gồm:
Tư vấn các vấn đề có liên quan đến Vướng mắc về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
Soạn thảo hồ sơ có liên quan đến các lĩnh vực như hình sự, dân sự, đất đai, thừa kế…
Giao kết quả đến tận tay cho khách hàng.
Trên đây là những chia sẻ của Luật 24H. Hy vọng những thông tin trên có thể giúp bạn biết rõ các thông tin pháp lý liên quan Vướng mắc về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về dịch vụ hay các vấn đề pháp lý khác thì đừng ngại liên hệ với chúng tôi theo hotline: 1900 6574 hoặc truy cập theo website https://luat24h.net để nhận được sự giúp đỡ từ chúng tôi.
Tham khảo thêm các bộ luật hiện hành Tại đây
Bài viết được thực hiện bởi Công ty Luật 24H
0 Chức vụ: Chủ sở hữu Website
( Lĩnh vực: Luật sư Bào chữa, bảo vệ, tư vấn, Trung tâm pháp lý
& Trình độ đào tạo: Công ty Luật TNHH
6 Số năm kinh nghiệm thực tế: 20 năm
4 Tổng số bài viết: 66.359 bài viết
CAM KẾT CỦA HÃNG LUẬT 24H:
– Luôn hỗ trợ khách hàng 24/7;
– Chi phí hợp lý nhất thị trường;
– Hỗ trợ nhanh chóng nhất cho khách hàng;
– Bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho khách hàng.
————————————————————–
THÔNG TIN LIÊN HỆ:
Trụ sở chính : số 69/172 Phú Diễn, P.Phú Diễn, Q.Bắc Từ Liêm, Tp.Hà Nội.
Hotline : 19006574
Email : hangluat24h@gmail.com
Website : luat24h.net
Facebook : https://www.facebook.com/congtyluat24h/
Luật 24H – “Hãng luật của Mọi người, Mọi nhà"