1. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ

Căn cứ vào những quy định về các căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự quy định tại Điều 275 Bộ luật dân sự năm 2015 thì nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các căn cứ sau:

– Hợp đồng.

– Hành vi pháp lý đơn phương.

– Thực hiện công việc không có ủy quyền.

– Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

– Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật.

–  Căn cứ khác do pháp luật quy định.

Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự
Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự

2. Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng

Theo Điều 385 Bộ luật dân sự 2015  quy định như sau

Điều 385. Khái niệm hợp đồng

Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Với tính chất này, khi các bên thỏa thuận nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của nhau thì đây sẽ là căn cứ hình thành nghĩa vụ. Thông thường, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng có tính đối xứng nhau, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực pháp luật. Mặc dù, Điều 275 Bộ luật dân sự 2015 không quy định cụ thể nhưng dưới góc độ nghiên cứu, hợp đồng là căn cứ phát sinh nghĩa vụ phải có hiệu lực pháp luật; còn đối với hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm kí kết nên không được coi là căn cứ phát sinh nghĩa vụ cho các bên trong hợp đồng.

Theo Điều 407 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 407. Hợp đồng vô hiệu

1. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.

Theo đó thì hợp đồng sẽ được coi là vô hiệu nếu:

– Hợp đồng có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội;

– Hợp đồng vô hiệu do giả tạo;

– Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khá khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;

– Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn;

– Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;

– Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

– Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức.

3. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi pháp lí đơn phương

Hành vi pháp lý đơn phương: Tuyên bố ý chí của một bên chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ được hiểu là hành vi pháp lý đơn phương. Với căn cứ này, quan hệ nghĩa vụ chỉ phát sinh khi người tuyên bố ý chí đưa ra các yêu cầu và một chủ thể nào đó phải thực hiện được yêu cầu đó. Ví dụ: Hứa thưởng, thi có giải.

Điều 570 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về Hứa thưởng quy định như sau :

Điều 570. Hứa thưởng

1. Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng.

2. Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Điều 573 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 573. Thi có giải

1. Việc tổ chức các cuộc thi văn hóa, nghệ thuật, thể thao, khoa học, kỹ thuật và các cuộc thi khác không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Người tổ chức các cuộc thi phải công bố điều kiện dự thi, thang điểm, các giải thưởng và mức thưởng của mỗi giải.

Việc thay đổi điều kiện dự thi phải được thực hiện theo cách thức đã công bố trong một thời gian hợp lý trước khi diễn ra cuộc thi.

3. Người đoạt giải có quyền yêu cầu người tổ chức thi trao giải thưởng đúng mức đã công bố.

Nhưng không phải mọi hành vi pháp lý đơn phương đều làm phát sinh nghĩa vụ dân sư. Có hành vi pháp lý đơn phương được tiến hành nhằm làm phát sinh một quyền hay nghĩa vụ dân sự của chủ thể được xác định. Có những hành vi pháp lý đơn phương được tiến hành không nhằm làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự ở chủ thể được xác định ví dụ chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản.

Hành vi của chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản là một hành vi pháp lý đơn phương, chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thuộc quyền mình. Nhưng quan hệ về quyền sở hữu tài sản là một loại quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối, quan hệ vật quyền. Chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản theo ý chí của mình, nhưng sự định đoạt trong trường hợp từ bỏ quyền sở hữu, là căn cứ chấm dứt quyền dân sự, nhưng hậu quả pháp lý của hành vi đơn phương này không nhằm làm phát sinh quyền hay nghĩa vụ ở chủ thể được xác định, do vậy hành vi của chủ sở hữu tài sản từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản chỉ là hành vi pháp lý đơn phương không làm phát sinh nghĩa vụ.

4. Nghĩa vụ phát sinh từ thực hiện công việc không có ủy quyền

Theo Điều 574 Bộ luật dân sự 2015 thì thực hiện công việc không có ủy quyền được hiểu là:

Điều 574. Thực hiện công việc không có ủy quyền

Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.

Như vậy, thực hiện công việc không có ủy quyền xuất phát từ sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ cho cả người thực hiện công việc và người có công việc, cụ thể:

Theo Điều 575 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 575. Nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền

1. Người thực hiện công việc không có ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc phù hợp với khả năng, điều kiện của mình.

2. Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực hiện công việc như công việc của chính mình; nếu biết hoặc đoán biết được ý định của người có công việc thì phải thực hiện công việc phù hợp với ý định đó.

3. Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải báo cho người có công việc được thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ trường hợp người có công việc đã biết hoặc người thực hiện công việc không có ủy quyền không biết nơi cư trú hoặc trụ sở của người đó.

4. Trường hợp người có công việc được thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì người thực hiện công việc không có ủy quyền phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi người thừa kế hoặc người đại diện của người có công việc được thực hiện đã tiếp nhận.

5. Trường hợp có lý do chính đáng mà người thực hiện công việc không có ủy quyền không thể tiếp tục đảm nhận công việc thì phải báo cho người có công việc được thực hiện, người đại diện hoặc người thân thích của người này hoặc có thể nhờ người khác thay mình đảm nhận việc thực hiện công việc.

Người có công việc được thực hiện cũng có nghĩa vụ, cụ thể nghĩa vụ này được quy định tại Điều 576 Bộ luật dân sư 2015:

Điều 576. Nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện

1. Người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc và thanh toán các chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình.

2. Người có công việc được thực hiện phải trả cho người thực hiện công việc không có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho mình, trừ trường hợp người thực hiện công việc không có ủy quyền từ chối.

Nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền mà gây thiệt hại thì người này có nghĩa vụ phải bồi thường:

Điều 577. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại (Bộ luật dân sự)

1. Khi người thực hiện công việc không có ủy quyền cố ý gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì phải bồi thường thiệt hại cho người có công việc được thực hiện.

2. Nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền do vô ý mà gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận công việc, người đó có thể được giảm mức bồi thường.

5. Nghĩa vụ phát sinh từ chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật: Hiểu theo nghĩa chung nhất, chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là những trường hợp chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không dựa trên những căn cứ luật định và cơ sở cho việc chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản là không hợp pháp.

Nếu chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản có căn cứ pháp luật được pháp luật bảo vệ bằng công cụ pháp lý thì chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật sẽ phát sinh nghĩa vụ hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó. Tuy nhiên, khi xem xét tới nghĩa vụ hoàn trả tài sản của người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật thì phải đặt trong mối liên hệ với Điều 167, Điều 168 Bộ luật dân sự 2015 về các trường hợp người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình không phải trả lại tài sản.

Điều 579 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về nghĩa vụ hoàn trả như sau:

Điều 579. Nghĩa vụ hoàn trả

1. Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì phải giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.

2. Người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.

Điều 581. Nghĩa vụ hoàn trả hoa lợi, lợi tức

1. Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật và không ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

2. Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.

Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản, người bị thiệt hại được hoàn trả tài sản thì phải thanh toán chi phí cần thiết mà người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình đã bỏ ra để bảo quản, làm tăng giá trị của tài sản.

6. Nghĩa vụ phát sinh từ gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật.

Thực hiện hành vi gây thiệt hại trái pháp luật sẽ phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. Đây là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người gây thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Điều kiện chung để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự 2015:

Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.