Tội cố ý truyền HIV cho người khác
Tội cố ý truyền HIV cho người khác. Pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?, luật 24H cam kết tư vấn 24/7, với thông tin chuẩn xác nhất, giá cả phải chăng, bảo vệ quyền lợi khách hàng tốt nhất. Các Luật sư của Luật 24H sẽ giải đáp những thắc mắc, đưa ra những quan điểm tư vấn để các bạn đọc được hiểu rõ hơn về vấn đề trên như sau:
1. CĂN CỨ PHÁP LÝ
Điều 149 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định Tội cố ý truyền HIV cho người khác như sau:
“Điều 149. Tội cố ý truyền HIV cho người khác
1. Người nào cố ý truyền HIV cho người khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 148 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
c) Đối với người dưới 18 tuổi;
d) Đối với từ 02 người đến 05 người;
đ) Lợi dụng nghề nghiệp;
e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
b) Đối với 06 người trở lên;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 61% trở lên;
d) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. DẤU HIỆU NHẬN BIẾT CỦA TỘI CỐ Ý TRUYỀN HIV CHO NGƯỜI KHÁC
2.1. Khách thể của tội phạm
Lây truyền HIV cho người khác là hành vi dùng các hình thức, thủ đoạn để làm cho người khác bị nhiễm HIV.
Tội phạm trực tiếp xâm phạm quyền bất khả xâm phạm sức khỏe của người khác, làm lan tràn căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS.
Như vậy, khách thể của tội phạm là quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người và sự an toàn của cả cộng đồng trước bệnh tật.
2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Theo quy định của Luật Phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) số 64/2006/QH11 ngày 29/6/2006 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) số 71/2021/QH14 ngày 16/11/2020 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2021), HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Human Immunodeficiency Virus” là vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh, AIDS là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Acquired Immune Deficiency Syndrome” là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do HIV gây ra, thường được biểu hiện thông qua các nhiễm trùng cơ hội, các ung thư và có thể dẫn đến tử vong.
Có nghĩa là HIV là một loại vi rút khi xâm nhập cơ thể con người gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch. AIDS là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV gây tổn thương hệ thống miễn dịch của cơ thể, làm cho nó không còn khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh và dẫn đến chết người. Vì vậy, căn bệnh nhiễm HIV/AIDS là căn bệnh thế kỷ.
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi của một người không bị nhiễm HIV nhưng đã cố ý truyền HIV từ người này sang người khác.
Căn bệnh này được truyền bằng 3 con đường chính: truyền từ mẹ sang con khi mang thai; truyền bằng đường máu như truyền máu trong bệnh viện, tiêm chích ma túy; truyền bằng đường quan hệ tình dục. Người phạm tội có các hành vi như: dùng kim tiêm chọc vào người bị nhiễm bệnh rồi chọc vào người khác; dùng dao, mảnh chai rạch tay, chân người bị nhiễm bệnh cho máu dính vào rồi rạch vào người khác; đem máu của người bị nhiễm HIV cho người khác.
Ngoài ra, người phạm tội còn có hành vi khác như dùng các thủ đoạn làm cho những bình, túi máu sạch dự trữ trong các bệnh viện trở thành máu bị nhiễm vi rút HIV với ý thức để truyền bệnh này cho nhiều người khác. Trong trường hợp hành vi của người phạm tội mới chỉ làm nhiễm vi rút HIV trong các túi hoặc bình máu dự trữ, chưa truyền máu đó cho người khác đã bị phát hiện, ngăn chặn kịp thời thì người phạm tội vẫn bị truy tố về tội cố ý truyền bệnh HIV cho người khác nhưng ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Hậu quả xảy ra là người khác cũng bị nhiễm HIV. Căn cứ để xác định nạn nhân có bị nhiễm bệnh hay không phải dựa vào xét nghiệm của cơ quan y tế có thẩm quyền. Nếu nạn nhân không bị nhiễm bệnh thì không cấu thành tội này. Phải làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả xảy ra. Nạn nhân bị nhiễm HIV phải do lây lan từ người phạm tội, nếu nạn nhân bị nhiễm HIV do lây lan từ nguồn lây khác thì người đó không phạm tội này.
Dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu để xác định tội phạm đã hoàn thành. Giữa hậu quả và hành vi của người phạm tội phải có mối quan hệ nhân quả. Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi truyền HIV từ người bệnh, nguồn bệnh sang cho người khác và chính bởi hành vi đó khiến cho nạn nhân nhiễm HIV. Trường hợp nạn nhân chưa nhiễm HIV nhưng người phạm tội đã thực hiện các hành vi thuộc mặt khách quan kể trên thì người đó vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
2.3. Chủ thể của tội phạm
Điều 149 Bộ luật Hình sự quy định chủ thể của tội cố ý truyền HIV cho người khác là người không thuộc trường hợp quy định tại Điều 148 của Bộ luật này. Vì thế, có thể hiểu chủ thể của tội phạm này là người không bị nhiễm HIV hoặc có bị nhiễm HIV nhưng vi rút HIV mà họ truyền cho người khác không phải vi rút HIV trong cơ thể của họ mà virus từ cơ thể của người khác (Điều 148 quy định chủ thể của tội phạm phải là người nhiễm HIV). Chủ thể của tội phạm có thể là cá nhân thực hiện hành vi truyền HIV một mình nhưng cũng có thể là người thực hành; người tổ chức; người xúi giục hoặc người giúp sức trong vụ án đồng phạm cố ý truyền HIV cho người khác.
Tuy nhiên ngoài điều kiện chủ thể không phải là người bị nhiễm HIV được quy định riêng biệt trong Điều 149 Bộ luật Hình sự thì người phạm tội phải đáp ứng được điều kiện từ đủ 16 tuổi trở lên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự và điều kiện có đủ năng lực trách nhiệm hình sự gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi.
2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện việc truyền HIV cho người khác với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội hoàn toàn biết rõ hành vi truyền HIV sẽ gây ra hậu quả làm nạn nhân bị HIV và mong muốn hậu quả ấy xảy ra. Hành vi truyền HIV cho người khác nguy hiểm hơn nhiều so với hành vi lây truyền HIV cho người khác nên nhà làm luật coi hành vi truyền HIV là hành vi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, còn hành vi lây truyền HIV nhà làm luật chỉ coi là hành vi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng.
3. CÁC TÌNH TIẾT ĐỊNH KHUNG HÌNH PHẠT CỤ THỂ
a) Có tổ chức.
Cũng giống như trường hợp phạm tội có tổ chức trong các tội phạm khác, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện hành vi cố ý truyền HIV vào cơ thể người khác, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Khi xác định trường hợp phạm tội này cần chú ý phân biệt với trường hợp đồng phạm thông thường có từ hai hoặc nhiều người cùng cố ý truyền HIV cho người khác nhưng không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau; không có phân công vai trò của mỗi người, không vạch kế hoạch và không có người cầm đầu.
b) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, trường hợp phạm tội này người phạm tội không vì động cơ cản trở người thi hành công vụ mà có thể vì bất cứ động cơ nào. Tuy nhiên, nếu vì lý do công vụ của nạn nhân mà người phạm tội có ý truyền HIV cho họ thì cần xác định nạn nhân phải là người đã thi hành một công vụ và vì việc thi hành công vụ đó mà bị người phạm tội cố ý lây truyền HIV cho họ thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 149 Bộ luật Hình sự.
c) Đối với người dưới 18 tuổi.
Trường hợp phạm tội này, người bị nhiễm HIV ( người bị hại) là người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi).
Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định cách xác định tuổi của nạn nhân dưới 16 tuổi như sau:
Việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:
– Giấy chứng sinh;
– Giấy khai sinh;
– Chứng minh nhân dân;
– Thẻ căn cước công dân;
– Sổ hộ khẩu;
– Hộ chiếu.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:
– Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
– Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
– Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
– Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
d) Đối với từ 02 người trở lên.
Nạn nhân bị truyền HIV là từ 02 người trở lên. Trường hợp này, người phạm tội đã truyền HIV trên diện rộng, ảnh hưởng đến nhiều người. Nhà làm luật cũng quy định nếu nạn nhân nhiễm HIV từ 02 đến 05 người thì người phạm tội chịu trách nhiệm theo Khoản 2 Điều 149 Bộ luật Hình sự còn nếu số nạn nhân từ 06 người trở lên thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm theo Khoản 03 Điều này.
đ) Lợi dụng nghề nghiệp.
Lợi dụng nghề nghiệp để cố ý truyền HIV cho người khác là trường hợp người phạm tội đã lợi dụng nghề nghiệp của mình mà nghề đó có khả năng, điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi cố ý truyền HIV cho người khác như lợi dụng việc chữa bệnh cho nạn nhân để truyền HIV cho người mà mình chữa bệnh. Ví dụ: Vũ Thị C là y tá Trung tâm cai nghiện. C biết H là người bị nhiễm HIV. Do có mâu thuẫn với K là người yêu cũ cũng bị đưa vào trung tâm cai nghiện, nên C có ý định trả thù K. Một lần Vũ Thị C được phân công trực, thấy K và H đều bị lên cơn sốt, theo chỉ định của bác sĩ điều trị, K và H đều phải tiêm thuốc giảm sốt. Lợi dụng cơ hội này, Vũ Thị C đã dùng kim tiêm và xi lanh tiêm thuốc cho H đẻ tiêm thuốc cho K với ý định để K cũng bị nhiễm HIV.
e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 31% trở lên.
Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích, mức độ rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
f) Đối với phụ nữ mà biết là có thai.
Trường hợp này người phạm tội biết nạn nhân là phụ nữ có thai nhưng vẫn có ý truyền HIV cho nạn nhân. Trường hợp nạn nhân không có thai nhưng người phạm tội đinh ninh là có thai và thực hiện hành vi truyền HIV thì cũng bị coi là phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai.
Ví dụ: A có một số biểu hiện như nôn khan, thèm chua,…(một số biểu hiện của người phụ nữ mang thai) nhưng không mang thai và B (bạn trai cũ của A) nghĩ rằng A mang thai, B muốn trả thù A vì A đã chia tay B và cho rằng A mang thai với người đàn ông khác trong lúc yêu B. Do vậy, B đã tiêm chích ma túy cho A.
g) Làm nạn nhân tự sát.
Làm nạn nhân tự sát tức là sau khi nạn nhân bị truyền HIV, biết mình đã nhiễm HIV, nạn nhân không thể chấp nhận được và không có mong muốn sống tiếp nên đã tự sát.
Hành vi tự sát của nạn nhân phải xuất phát từ việc bị người phạm tội truyền HIV, nếu nạn nhân bị HIV và muốn tự sát nhưng không phải cho người phạm tội truyền mà đã bị người khác truyền HIV trước đấy thì người phạm tội không phải chịu trách nhiệm về tình tiết làm nạn nhân tự sát.
4. HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý TRUYỀN HIV CHO NGƯỜI KHÁC
Điều 149 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:
– Khung hình phạt phạt tù từ 03 năm đến 07 năm đối với người nào cố ý truyền HIV cho người khác.
– Khung hình phạt phạt tù từ 07 năm đến 15 năm khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có tổ chức; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đối với người dưới 18 tuổi; đối với từ 02 người đến 05 người; lợi dụng nghề nghiệp; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 31% đến 60%.
– Khung hình phạt phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: đối với phụ nữ mà biết là có thai; đối với 06 người trở lên; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 61% trở lên; làm nạn nhân tự sát.
– Khung hình phạt bổ sung, người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Dịch vụ hỗ trợ của Luật 24H
Đến với chúng tôi, chúng tôi sẽ đồng hành và hỗ trợ bạn các dịch vụ liên quan đến vấn đề Tội cố ý truyền HIV cho người khác, bao gồm:
Tư vấn các vấn đề có liên quan đến vấn đề trên;
Soạn thảo hồ sơ có liên quan đến các lĩnh vực như hình sự, dân sự , đất đai, thừa kế….
Giao kết quả đến tận tay cho khách hàng.
Trên đây là những chia sẻ của Luật 24H . Hy vọng những thông tin trên có thể giúp bạn biết rõ các thông tin pháp lý liên quan đến vấn đề trên. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về dịch vụ này hay các vấn đề pháp lý khác thì đừng ngại liên hệ với chúng tôi theo hotline: 1900 6574 hoặc truy cập theo website https://luat24h.net để nhận được sự giúp đỡ từ chúng tôi.
Tham khảo thêm các bộ luật hiện hành Tại đây
>> Xem thêm: Doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam phải đóng thuế như thế nào – Hãng luật 24h
>> Xem thêm: Thủ tục thành lập chi nhánh công ty theo quy định mới nhất – Hãng luật 24H
>> Xem thêm: Thủ tục thành lập công ty cổ phần mới nhất – Hãng luật 24H
>> Xem thêm: Các loại thuế phải đóng khi mở công ty năm 2020 – Hãng luật 24H
>> Xem thêm: Thủ tục giải thể doanh nghiệp theo quy đinh mới nhất – Hãng luật 24H
Bài viết được thực hiện bởi Công ty Luật 24H
0 Chức vụ: Chủ sở hữu Website
( Lĩnh vực: Luật sư Bào chữa, bảo vệ, tư vấn, Trung tâm pháp lý
& Trình độ đào tạo: Công ty Luật TNHH
6 Số năm kinh nghiệm thực tế: 20 năm
4 Tổng số bài viết: 66.359 bài viết
CAM KẾT CỦA HÃNG LUẬT 24H:
– Luôn hỗ trợ khách hàng 24/7;
– Chi phí hợp lý nhất thị trường;
– Hỗ trợ nhanh chóng nhất cho khách hàng;
– Bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho khách hàng.
————————————————————–
THÔNG TIN LIÊN HỆ:
Trụ sở chính : số 69/172 Phú Diễn, P.Phú Diễn, Q.Bắc Từ Liêm, Tp.Hà Nội.
Hotline : 19006574
Email : hangluat24h@gmail.com
Website : luat24h.net
Facebook : https://www.facebook.com/congtyluat24h/
Luật 24H – “Hãng luật của Mọi người, Mọi nhà"